Thứ Tư, 11 tháng 5, 2016

Từ 8/2016 sẽ phạt tù nếu sống thử

Điều 147 Bộ luật hình sự (BLHS) hiện hành quy định:
“1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.



2. Phạm tội trong trường hợp đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.
Nghiên cứu Điều 147 BLHS, chúng ta không thấy nảy sinh vấn đề khi phân tích các dấu hiệu khách thể, chủ thể và mặt chủ quan để cấu thành nên tội phạm. Tuy nhiên, nếu quan tâm đến mặt khách quan, có thể có vướng mắc để định tội và định khung hình phạt của hành vi phạm tội phạm này. Theo Khoản 1 Điều 147, mặt khách quan của Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng được phân tích như sau:
Người đang có vợ hoặc có chồng mà có hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác
Đang có vợ hoặc có chồng được hiểu là người đã kết hôn (có đăng ký kết hôn hoặc hôn nhân thực tế được pháp luật công nhận[1]) và chưa chấm dứt quan hệ hôn nhân bằng một quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án (về công nhận thuận tình ly hôn, xử cho ly hôn hay tiêu hôn vì vi phạm điều kiện kết hôn do luật định) hoặc một bên chết, mất tích đã bị Toà án tuyên bố mất tích, v.v..
Người chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ
Người chưa có vợ, có chồng là người chưa từng kết hôn hoặc đã kết hôn nhưng đã hoàn tất thủ tục ly hôn. Chỉ khi người chưa có vợ, có chồng biết được người mình chung sống là người đang có vợ, có chồng thì mới được xem là hành vi khách quan của tội phạm này.
Chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó...[2]. Nếu chỉ lén lút quan hệ tình dục theo cái gọi là “ngoại tình” thì không được xem là chung sống như vợ chồng.
Về mặt khách quan, tội phạm được xem là hoàn thành khi người phạm tội thực hiện một trong các hành vi trên gây ra hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Hậu quả nghiêm trọng có thể là từ việc vi phạm đó mà người vợ hoặc người chồng hợp pháp phải bỏ việc, tốn kém tiền để hàn gắn quan hệ, uất ức mà sinh bệnh tật, tự sát, phạm tội, con cái bơ vơ, đi “bụi”,…
Như vậy, về mặt khách quan, để thoả mãn cấu thành tội phạm cơ bản của Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng, hai dấu hiệu cần và đủ phải là:
(1) Hành vi chung sống như vợ chồng;
(2) Bị xử phạt hành chính, hoặc gây hậu quả nghiêm trọng.
Áp dụng phân tích trên để giải quyết một vụ án ví dụ dưới đây, chúng ta sẽ thấy phát sinh vấn đề. Vụ án như sau:
Đỗ Quốc Quý cưới Nguyễn Thu Dậu và đã có hai con gái chung. Quý tuyên bố với Dậu là sẽ đi cưới người khác để có con trai nối dõi tông đường. Qua mai mối, Quý đã quen được Phạm Thị Minh Hà, người xã bên. Hai người đã yêu nhau.
Mặc cho vợ con can ngăn, dư luận phản đối, Quý vẫn sang nhà Hà sống chung với Hà như vợ chồng. Một năm sau, hai người đã có một đứa con trai.
Trong thời gian chung sống, ỷ mình còn trẻ lại sinh con trai cho chồng, Hà lười lao động mà còn hay chửi bới chị Dậu và các con của chị Dậu. Quá bức xúc, chị Dậu đã nhờ đến Hội phụ nữ xã. Với sự giúp đỡ của Hội phụ nữ xã, chị Dậu kiện hành vi của chồng mình đến Toà án. Toà án đã quyết định huỷ hôn nhân trái pháp luật này.
Quý tức giận thường xuyên đánh chửi chị Dậu, nhiều lần không cho chị ăn cơm, nhốt chị trong buồng không cho ra ngoài nhiều ngày làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ của chị. Có lần, Quý còn cởi quần áo của chị Dậu đuổi ra ngoài đường ban ngày, mặc cho các con gái la khóc, van xin. Bên cạnh đó, Quý bất chấp quyết định của Toà án đã huỷ hôn nhân trái pháp luật, vẫn tiếp tục chung sống với Hà như cũ trong ngôi nhà của mẹ con chị Dậu.
Trong vụ án trên, hành vi của Quý và Hà đã thoả mãn dấu hiệu cần của mặt khách quan của Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng. Tức là, Quý đã có vợ mà chung sống như vợ chồng với Hà. Hà chưa có chồng, biết Quý đã có vợ mà chung sống như vợ chồng với Quý. Điều này được biểu hiện qua các hành vi: “hai người đã yêu nhau”, “Quý vẫn sang nhà Hà chung sống với Hà như vợ chồng”, “đã có chung một đứa con trai”. Tuy nhiên, điều kiện đủ của mặt khách quan cấu thành nên tội phạm này lại chưa thoả mãn, đó là dấu hiệu “gây hậu quả nghiêm trọng” hoặc “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này”. Việc Quý “cởi quần áo chị Dậu đuổi ra người đường giữa ban ngày” hay “các con la khóc van xin” chưa thể xem đó là hậu quả nghiêm trọng mà chỉ có thể coi đó là hành vi ngược đãi vợ.
Tuy nhiên, hành vi của Quý và Hà lại thoã mãn dấu hiệu “đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó” được nêu tại khoản 2 Điều 147. Như vậy, hành vi của Quý và Hà có thể bị xem là thoả mãn cấu thành tội phạm được quy định tại khoản 2 Điều 147 không?
Phân tích cơ cấu và nội dung của Điều 147 cho thấy, hành vi của Quý và Hà không thoả mãn khoản 2 Điều này. Cơ cấu và nội dung của Điều 147 được phân tích như sau: khoản 1 là cấu thành tội phạm cơ bản, khoản 2 là cấu thành tội phạm tăng nặng. Theo Khoản 2 Điều 147: “Phạm tội trong trường hợp đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó…”. Cụm từ “phạm tội” trong khoản này hàm chứa nội dung là hành vi phải thoả mãn các dấu hiệu khách quan của cấu thành tội phạm cơ bản, tức là hành vi chung sống như vợ chồng phải đã gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính. Tuy nhiên, hành vi của Quý và Hà chưa thoả mãn cấu thành tội phạm cơ bản nên không thể thoả mãn được cấu thành tội phạm tăng nặng. Thực tế này đã tạo nên một bất cập lớn trong kỹ thuật lập pháp hình sự đối với Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng, dẫn đến hậu quả bỏ lọt tội phạm. Bởi vì, Quý và Hà trong trường hợp này đã không bị xem là phạm Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng dù hành vi của họ nguy hiểm không kém so với hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm cơ bản khi “đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó”.
Để khắc phục nhược điểm này, có một trong hai phương án lựa chọn để sửa đổi Điểu 147 BLHS.
Phương án thứ nhất, sửa cụm từ “Phạm tội trong” tại khoản 2 Điều này thành “Mọi”. Như vậy, khoản 2 Điều 147 sau sửa đổi sẽ là “Mọi trường hợp đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.” Phương án này tương tự như phương án mà các nhà làm luật đã lựa chọn khi quy định khoản 4 Điều 112 BLHS hiện hành với nội dung “Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em và người phạm tội bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình”. Nghĩa là, Điều 112 có hai cấu thành tội phạm cơ bản. Sau khi Điều 147 được sửa đổi theo phương án trên cũng sẽ có hai cấu thành tội phạm cơ bản. Sửa đổi theo hướng này thể hiện rõ quan điểm là hành vi tiếp tục chung sống như vợ chồng sau khi “đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng” nguy hiểm hơn hành vi tiếp tục chung sống như vợ chồng sau khi “đã bị xử phạt hành chính” hoặc hành vi chung sống như vợ chồng “gây hậu quả nghiêm trọng” qua loại và mức hình phạt kèm theo (“cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm” (khoản 1) so với “phạt tù từ sáu tháng đến ba năm” (khoản 2). Điều đó có vẻ chưa ổn khi hệ luỵ của nó là xem trọng quyết định của Toà án hơn quyết định xử phạt hành chính của cơ quan quản lý nhà nước hay hậu quả nghiêm trọng, thậm chí là rất nghiêm trọng hoặc hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, nếu phân tích nội dung khoản 1 Điều 147 theo phương pháp suy lý mạnh. Bởi vì, nếu hành vi chung sống như vợ chồng mà gây hậu quảrất nghiêm trọng, hoặc đặc biệt nghiêm trọng cũng có thể chỉ bị định tội tại khoản 1 Điều này.
Phương án thứ hai, bỏ khoản 2 Điều này và bổ sung dấu hiệu “đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng” vào khoản 1 và Điều 147 khi đó chỉ có một khung hình phạt. Đồng thời, có thể nâng mức phạt tù tối thiểu từ 3 tháng lên 6 tháng, mức tối đa từ 1 năm tù lên 2 năm tù . Như vậy, sau khi sửa đổi, bổ sung, Điều 147 BLHS sẽ là: “Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến hai năm”. Phương án thứ hai tương đối phù hợp hơn so với phương án thứ nhất vì một mặt, nó không có sự phân biệt tầm quan trọng giữa quyết định của cơ quan quản lý nhà nước so với cơ quan tư pháp. Mặt khác, quy định này vẫn đảm bảo tốt nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với người phạm tội./.

[1] Kể từ 1/1/2001, nam nữ mới bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn sẽ không được công nhận là vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
 [2] Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/9/2001 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện kiểm sát Nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng các quy định tại chương XV “Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét